Nghệ thuật Barốc (Baroque)

1. KHÁI QUÁT CHUNG

Nghệ thuật Barốc (Baroque) được bắt nguồn từ phong trào Chống cải cách của Giáo
hội Roma của thế kỷ XVII. Bắt đầu từ thế kỷ XIII trong Giáo hội của nhà thờ có một bạ
phận nhận thấy sự trì trệ của nhà thờ nên đã kêu gọi cải cách tôn giáo, cuộc đấu tranh
giữa hai lực lượng này diễn ra hết sức gay gắt. Cuộc đấu tranh này đã chia nội bộ giá
hội ra làm hai phái: một bộ phận nhỏ đi theo cái cách gọi là Đạo Tin lành, bộ phận cò
lại là Đạo Thiên chúa chính thống, mặc dù cả hai Đạo này đều thờ Chúa. Mãi đến đã
thế kỷ XVI Đạo Thiên chúa chính thống mới chiến thắng Đạo Tin lành bằng vũ lực, tu
nhiên sự chống đối vẫn lan rộng. Giáo hội Thiên chúa giáo đã đưa ra một chương trìn
chống cải cách tôn giáo nhằm mở rộng thanh thế, uy tín cho nhà thờ. Hội đồng tôn giá
triệu tập tại Trent năm 1545 và đã ra sắc lệnh rằng nghệ thuật là công cụ chủ yếu để m
rộng uy tín và thanh thế cho nhà thờ, thông qua nghệ thuật truyền bá những lời giá
huấn của Chúa đến mọi người. Tất cả các ngành nghệ thuật được triển khai vào côn
chúng. “Các giám mục phải chú trọng làm sao để lịch sử các tín nghĩa huyền bí của s
cứu thế được diễn đạt trong hội họa và các nghệ thuật khác, giáo dục các tín đồ và tạ
cho họ thói quen luôn nhớ tới và giữ trong lòng mọi tín điều của đức tin”.

Cùng thời gian này xu thể chống lại nghệ thuật Cổ điển Phục hưng và tinh thần Ch
nghĩa nhân văn xuất hiện, môi trường văn hóa và tinh thần mộ đạo của công chúng cùn
những nhà nghệ thuật bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh lịch sử đã hình thành xu thế ngh
thuật mới. Một phong cách nghệ thuật ưu tiên biểu lộ cảm xúc chân thực, một sự vậ
động không ngừng và sự tưởng tượng trong cách trang trí đã được hình thành.

“Nhân sinh quan Barốc đã được thể hiện hùng hồn trong văn học và âm nhạc cũn
như trong kiến trúc và hội hoạ, điều khắc. Trong tất cả các bộ môn nghệ thuật đó, dấu ấ
rõ nét nhất của phong cách Barốc là mối quan hệ năng động giữa khả năng làm chủ hìn
thức, ham muốn thể hiện sự chuyển động và ưa thích những chi tiết trang trí”. Theo nhận
xét của Giáo sư ngữ văn và văn học Peter Skrine, tác giả cuốn sách “The Baroque”.
Peter Skrine còn nói: “Thời đại Barốc: thời đại của rực rỡ và khắc khoải”. Ông cũn

cho rằng Barốc thuộc về một loại hình biểu hiện chủ yếu về mặt thị giác.
Nghệ thuật Barốc từ Italia, phát triển nhanh chóng ra toàn châu Âu và khắp trên thu
giới, nó chinh phục cả châu Mỹ và Nga trong thời gian tiếp theo. Cũng như Văn nghệ

 

Caravaggio, Thần rượu Bacchus, Sơn dẫn
95 x 85cm, 1593-1594.

 

Frans Hals, Cô gái Bohemienne, Sơn dầu,
58×52cm, 1628-1630, Bảo tàng Louvre

là một hội họa là một nền hội họa phóng khoảng, tự do, và phù du, một nghệ thuật bảo
hiệu một cuộc cách mạng xã hội và chính trị đang đến gần. Nghệ thuật thế kỷ XVIII là
một loại nghệ thuật riêng tư, tinh lọc và giàu xúc cảm.

Nghệ thuật thế kỷ XVIII ở Italia có Francesco Guardi (1712-1793), Antonio Canal
Canaletto (1697-1768) và Giambattista Tiepolo (1696-1770). Thế kỷ XVIII ở Pháp có
Jean-Baptiste Chardin (1699-1779), Hyacinthe Rigaud (1659-1743). Jean Antoine
Watteau (1684-1721), Maunice Quentin de La Tour (1704-1788), François Boucher
(1703-1770) và Jean Honoré Fragonard (1732-1806).

Ở nước Anh Thanh giáo và Tin lành, người ta không chấp nhận ảnh hưởng của

Italia, có ba họa sĩ đã xây dựng nên một nền hội hoa Anh quốc mới William Hogarth

(1697-1764), Thomas Gainsborough (1727-1788) và Sir Joshua Reynolds (1723-1792).
Tất cả những gương mặt nghệ sĩ tiêu biểu trên đã làm cho nghệ thuật thế kỷ XVII,
XVIII nở rộ, đánh dấu hiện tượng nghệ thuật, một phong cách nghệ thuật riêng trong
lịch sử nghệ thuật thế giới.

2 ĐIỀU KHÁC BARỐC Ở ITALIA

Rôma là trung tâm văn hóa quan trọng nhất, là bộ mặt của Italia thế kỷ XVII. Ở
Halia lúc này. Giáo hoàng và Giáo hội là có quyền tối thượng, các đời giáo hoàng đều sử
dụng nghệ thuật làm phương tiện phô trương thanh thể cho Rôma và uy tín cho nhà thời
Hội hoạ, điều khác, kiến trúc đã bổ sung cho nhau để tạo nên một Rồm: hoành trắng,
lòng lấy, nguy nga một thời, trong đó điều khác đã đóng một vai trò hết sức quan trọng

Phân tích kỹ, Baroc có nhiều phong cách khác nhau: tranh phong cảnh kiểu Cổ điển chủ nghĩa của Poussin, tranh phong cảnh đặc trưng Hà Lan của Hobbema và của Vermeer, kiểu tranh tưởng tượng mang tính tổng hợp của Rubens, với một khả năng năng động dồi dào, giàu màu sắc trong một không gian sáng sủa, bên cạnh đó là loại tranh giàu tính nội tâm của Rembrandt và loại giàu tính chất bột phát của Frans Hals. Một họa sĩ cung đình Tây Ban Nha khác cũng cần phải nhắc tới tính hiện đại của tranh ông đó là Velasquez. Ngay với các danh họa của Italia cũng có sự đối nghịch với nhau, Caravaggio vẽ theo kiểu biến đổi sắc độ sáng – tối là chính, trong tranh sử dụng ánh sáng tràn ngập, trong khi anh em Carracci lại bảo vệ và mô phỏng cách vẽ của các bác thấy như Raphael một cách kiên quyết. Khi nghiên cứu nghệ thuật Barốc, ta có thể nghiên cứu theo từng nước hay từng nhóm nước, trong mỗi nước lại có các tác giả điển hình. Ở Halia thế kỷ XVII, điêu khắc có Bernini và Borromini, hội họa có Caravaggio (Michelangelo Merisi 1570-1610), Anibal Carraci (1560-1690). Hội họa Italia lúc này chú trọng sự quan sát, họ bỏ rơi cái lý tưởng trừu tượng của chủ nghĩa thủ pháp và quay về với hiện thực trực tiếp. Thế kỷ XVII ở Pháp có anh em Le Nain (Antoine Le Nain (1588-1648), Louis Le Nan (1593-1648) và Mathieu Le Nain (1607-1677)), Georges de La Tour (1593-1652). Nền hội họa cổ điển Pháp lúc này còn mang đậm dấu ấn của Nicolas Poussin (1594-1665), Philippe de Champaigne (1602-1674), Claude Lorrain (1600-1682) và Charles Le Brun (1619-1690). Nghệ thuật ở Pháp lúc này mang tính cổ điển và tĩnh trang trọng rất rõ nét. Ô Tây Ban Nha, thế kỷ XVII được gọi là Thế kỷ Vùng, với Jusepe Ribera (1591-1652), Francisco de Zurbarán (1598-1664), Bartolomé Esteban Murillo (1618-1682) và Diego Vélasquez (1599-1660). Trong khi đó nghệ thuật Flamand thế kỷ XVII có những khuôn mặt nổi tiếng như Antoine Van Dyck (1599-1641), Jacob Jordeans (1593-1678), David Teniers (1610-1690) và Pierre-Paul Rubens (1577-1600). Đó là một nền nghệ thuật đi từ tiểu tiết đến sự hoành tráng. Ở Hà Lan thế kỷ XVII, có những bạc thủy như Frans Hals (1581-1666), Jacob Van Ruisdael (1628-1682), Harmensz Van Rijin Rembrandt (1606-1669), Johannes Vermeer (1632-1675). Nghệ thuật thế kỷ XVIII có thể tính từ thời gian từ 1715 đến 1789, là năm Cách mạng Pháp nó ra. Nghệ thuật này bao gồm nghệ thuật Rốccôcó trong trang trí kiến trúc và nghệ thuật hội họa trong các phòng tránh. Nghệ thuật Roccôcô tuy tắm thường và tỉnh xảo đã phá vỡ sự cứng nhắc của nghệ thuật có điển, còn hội họa Pháp thế kỷ XVII

 

Bài viết khác